Cơ quan vũ trụ Mỹ đang đối mặt với đợt cắt giảm lực lượng lao động lớn nhất trong nhiều thập kỷ, với gần 4.000 nhân viên chọn rời đi thông qua chương trình nghỉ việc tự nguyện. Con số này chiếm khoảng 20% tổng lực lượng lao động của NASA , làm thu hẹp cơ quan từ 18.000 xuống còn 14.000 nhân viên. Những người ra đi này diễn ra giữa lúc có đề xuất cắt giảm ngân sách sẽ giảm kinh phí của NASA từ gần 25 tỷ đô la Mỹ xuống còn 19 tỷ đô la Mỹ cho năm tài chính 2026.
Chi tiết cắt giảm nhân lực NASA:
- Tổng số người rời đi: Gần 4.000 nhân viên (20% lực lượng lao động)
- Đơn đăng ký vòng đầu tiên: 870 nhân viên
- Đơn đăng ký vòng thứ hai: 3.000 nhân viên
- Tổn thất bổ sung từ tự nhiên rời bỏ: 500 nhân viên
- Quy mô lực lượng lao động cuối cùng: 14.000 nhân viên (giảm từ 18.000)
Vấn đề chảy máu chất xám
Tính chất tự nguyện của những người ra đi này đã làm dấy lên lo ngại về việc mất đi những nhân viên có kỹ năng nhất của cơ quan. Khi các tổ chức đưa ra các chương trình nghỉ việc tự nguyện, những nhân viên tài năng nhất thường rời đi trước tiên vì họ có triển vọng việc làm tốt hơn ở nơi khác. Điều này tạo ra một mô hình đáng lo ngại khi những người mà NASA cần giữ lại nhất lại là những người có khả năng rời đi cao nhất.
Bạn đang mất đi chuyên môn quản lý và kỹ thuật cốt lõi của cơ quan, ông Casey Dreier , trưởng phòng chính sách vũ trụ tại The Planetary Society cho biết.
Thời điểm này không thể tệ hơn đối với kiến thức thể chế của NASA . Nhiều nhân viên ra đi có hàng thập kỷ kinh nghiệm trong các sứ mệnh vũ trụ phức tạp, phát triển vệ tinh và nghiên cứu khoa học. Kỹ năng chuyên môn của họ trong các lĩnh vực như kiểm tra linh kiện điện tử cho tàu vũ trụ và quản lý sứ mệnh đại diện cho nhiều năm đào tạo sẽ rất khó thay thế.
Cuộc tranh luận về tư nhân hóa
Các cuộc thảo luận cộng đồng tiết lộ những lo ngại sâu sắc về chiến lược rộng lớn hơn đằng sau những đợt cắt giảm này. Nhiều nhà quan sát coi đây là một phần của kế hoạch có chủ ý nhằm làm suy yếu các cơ quan chính phủ và sau đó chỉ ra hiệu quả giảm sút của họ như là lý do chính đáng cho việc tư nhân hóa. Mô hình này đã được thấy trước đây trong các dịch vụ chính phủ khác, nơi việc cắt giảm ngân sách dẫn đến hiệu suất tệ hơn, sau đó trở thành cớ để chuyển giao hoạt động cho các công ty tư nhân.
Điều trớ trêu là các công ty vũ trụ tư nhân như SpaceX thực sự đã hưởng lợi rất lớn từ hàng thập kỷ nghiên cứu và phát triển của NASA . Cơ quan này đã đầu tư hàng chục tỷ đô la vào các dự án vũ trụ tư nhân, cung cấp cả kinh phí và chuyên môn kỹ thuật giúp cho việc bay vũ trụ thương mại trở thành khả thi. Giờ đây, khi những công ty này thành công, chính cơ quan đã giúp tạo ra họ lại đối mặt với những đợt cắt giảm lớn.
Tác động ngân sách:
- Ngân sách đề xuất cho năm tài chính 2026: 19 tỷ USD (giảm 24%)
- Ngân sách hiện tại: Gần 25 tỷ USD
- Nguồn tài trợ bổ sung đến năm 2032: 10 tỷ USD (từ Đạo luật One Big Beautiful Bill)
- Các lĩnh vực trọng tâm cho nguồn tài trợ bổ sung: Sứ mệnh Mars và kế hoạch trở lại mặt trăng
![]() |
---|
Logo NASA tượng trưng cho vai trò then chốt của cơ quan này trong việc khám phá không gian giữa những lo ngại về tư nhân hóa và cắt giảm ngân sách |
NASA thực sự làm gì
Phần lớn thảo luận công chúng tập trung vào việc phóng tên lửa, nhưng công việc của NASA mở rộng xa hơn việc đưa mọi thứ lên không gian. Cơ quan này tiến hành nghiên cứu khí hậu, vận hành các sứ mệnh khoa học đến các hành tinh khác, quản lý các kính viễn vọng Hubble và James Webb , và nghiên cứu mọi thứ từ thành phần tiểu hành tinh đến tác động sức khỏe của phi hành gia. Những sứ mệnh khoa học này thường mất nhiều năm hoặc nhiều thập kỷ để hoàn thành và đòi hỏi loại cam kết dài hạn mà các công ty tư nhân thường tránh.
Những đợt cắt giảm đặc biệt đáng lo ngại đối với các chương trình khoa học Trái Đất của NASA , nghiên cứu về biến đổi khí hậu và giám sát môi trường. Những chương trình này cung cấp dữ liệu quan trọng để hiểu về khí hậu đang thay đổi của hành tinh chúng ta, nhưng chúng không tạo ra loại sự phấn khích hay tiềm năng lợi nhuận thu hút đầu tư tư nhân.
Các Chương Trình Chính Bị Ảnh Hưởng:
- Space Launch System (SLS) - Chương trình tên lửa nâng hạng nặng
- Sứ mệnh Mars Sample Return - Dự án khoa học hành tinh
- Các chương trình nghiên cứu khoa học Trái Đất và khí hậu
- Chương trình mặt trăng Artemis (tình trạng tài trợ hỗn hợp)
- Các sứ mệnh khoa học khác nhau và hoạt động kính thiên văn
Tương lai của khoa học vũ trụ Mỹ
Trong khi các công ty tư nhân xuất sắc trong việc phóng thường xuyên và triển khai vệ tinh, họ chưa thể hiện cam kết tương tự đối với nghiên cứu khoa học thuần túy. SpaceX có thể phóng tải trọng lên quỹ đạo một cách hiệu quả, nhưng không vận hành các sứ mệnh không gian sâu đến Jupiter hay nghiên cứu thành phần của các thiên hà xa xôi. Những hoạt động nghiên cứu cơ bản này đòi hỏi loại đầu tư kiên nhẫn, dài hạn mà các cơ quan chính phủ có vị thế duy nhất để cung cấp.
Thách thức hiện tại là liệu lực lượng lao động còn lại của NASA có thể duy trì vị thế dẫn đầu của Mỹ trong khoa học vũ trụ với nguồn lực bị giảm đáng kể hay không. Cơ quan sẽ cần phải chọn lọc hơn về những sứ mệnh nào để theo đuổi, có khả năng từ bỏ hoàn toàn một số lĩnh vực nghiên cứu. Điều này có thể có hậu quả dài hạn đối với khả năng cạnh tranh khoa học của Mỹ và sự hiểu biết của chúng ta về vũ trụ.
Những nhân viên ra đi phải đối mặt với những thách thức riêng của họ, vì tính chất chuyên môn của kỹ năng họ có thể không dễ dàng chuyển đổi sang các ngành công nghiệp khác. Trong khi một số có thể tìm được vị trí tại các công ty vũ trụ tư nhân, thị trường việc làm cho các kỹ sư tàu vũ trụ và nhà khoa học hành tinh vẫn còn hạn chế. Nhiều người có thể buộc phải rời khỏi ngành công nghiệp vũ trụ hoàn toàn, đại diện cho sự mất mát vĩnh viễn của chuyên môn đã mất hàng thập kỷ để phát triển.
Tham khảo: Nearly 4,000 NASA employees opt to leave agency through deferred resignation program